hy vọng mãnh liệt của đất nƣớc vào tƣơng

- Tử vi Ất Dậu 1945 năm 2024 phạm các đại kỵ nào?

Người tuổi Ất Dậu cần tránh các năm Tam tai: Tý, Sửu, Hợi năm làm nhà 2024 (Giáp Thìn). Theo cách tính thì Gia chủ 1945 (Ất Dậu) sẽ không phạm đại kỵ tam tai.

Năm nay tuổi của bạn là "Nhị Nghi" không phạm HOANG ỐC. Nhì nghi: Sau nhất cát là nhì nghi, là 1 trong 3 cung tốt của 6 cung hoang ốc. Xây nhà trong năm này sẽ mang đến sự giàu có, hưng thịnh cho cả gia đình.

Năm 2024 (Giáp Thìn) gia chủ 1945 (Ất Dậu) là 80 tuổi (tuổi mụ), theo cách tính này gia chủ sẽ :

Kỵ chăn nuôi gia súc: Tuy đây là vận hạn không liên quan trực tiếp tới con người nhưng gây họa đến gia súc, làm ảnh hưởng tới kinh tế gia đình.

Ất Dậu 1945 năm Giáp Thìn 2024 sẽ phạm vào: Không phạm Thái Tuế

Theo hệ thống "CỬU TRẠCH VẬN NIÊN" thì gia chủ Ất Dậu 1945 năm Giáp Thìn 2024 là: Trạch Bảo là một trong 4 trạch tốt gồm (Trạch Phúc - Trạch Đức - Trạch Bảo - Trạch Lộc).

Trạch Bảo là tốt, bởi vậy gia chủ 1945 nên mua, xây cất hoặc sửa nhà và nên làm các việc trọng đại vào năm 2024 này.

"Làm nhà cửu trạch vận từng niên

Phúc, đức, bảo, lộc phú thọ yên

Nghĩa là: Làm nhà phải chú ý trạch từng năm.

Tóm lại: Năm 2024 gia chủ sinh năm 1945 gặp Trạch Bảo thì mua nhà, làm nhà hoặc sửa nhà vào năm này rất tốt!

Nữ Ất Dậu 1945 hợp làm ăn các tuổi Nam mạng

- Dưới đây là tất cả các tuổi hợp làm ăn với gia chủ tuổi Ất Dậu 1945 NỮ mạng cùng với những lời bình giải luận điểm từ các chuyên gia phong thủy về tuổi hợp làm ăn với tuổi Ất Dậu từ độ tuổi 1964 đến 2006. Hãy cùng xem tuổi hợp làm ăn với tuổi Ất Dậu 1945 NỮ mạng là những tuổi nào nhé.

Danh sách các tuổi (NAM MẠNG) hợp làm ăn với Ất Dậu 1945 (NŨ MẠNG)

Xét tuổi Ất Dậu 1945 hợp số nào?

Nam Ất Dậu 1945 nên có sự xuất hiện những con số hợp tuổi 0, 1, 6, 7, 2, 4 sẽ gặp nhiều may mắn, tự tin, phát triển công danh sự nghiệp và luôn gặp cơ hội đến với cuộc sống của mình một cách bất ngờ.

Nữ Ất Dậu 1945 nên có sự xuất hiện những con số hợp tuổi 0, 1, 6, 7, 2, 4 sẽ tạo thiện cảm, thuận lợi trong giao tiếp và gây ấn tượng với đối phương. Số hợp sẽ giúp bạn cải mệnh về gia chánh, công việc và cả tình duyên.

Khám phá con số may mắn của tuổi Ất Dậu 1945

Năm sinh: 1945 = 4 + 5 = 9 (Tổng thứ 1) = 9 + = 9 (Tổng thứ 2)

Nếu bạn là nam: 10 – 9 = 1 (10 trừ đi tổng thứ 2)

Nếu bạn là nữ: 5 + 9 = 14 = 1 + 4 = 5 (Tổng thứ 2 cộng với số 5)

Như vậy thì cách tính con số hợp tuổi Ất Dậu 1945 có thể thấy:

Ngũ hành tương sinh, tương khắc tuổi Ất Dậu 1945

Màu sắc hợp tuổi Ất Dậu 1945 có khả năng mang tới những điều kỳ diệu cho thân chủ sinh năm 1945. Ngược lại nếu sử dụng màu sắc kỵ tuổi thì người Ất Dậu 1945 có thể gặp phải những xui xẻo và nhiều éo le. Vậy, người sinh năm 1945 hợp màu sắc nào?

- Sinh năm 1945 hợp con số may mắn nào?

Bản thân mỗi con số chứa những năng lượng diệu kỳ. Nó xuất hiện rất nhiều trong cuộc sống chúng ta, vì thế lựa chọn con số hợp tuổi là một cách giúp thân chủ cải thiện vận mệnh. Chủ mệnh sinh năm 1945 chọn số hợp tuổi sẽ nhận được thêm vượng khí, giúp mọi việc được hanh thông, may mắn.

Xem cung mệnh các tuổi khác khác?

Sau 12 năm (1975-1987) thành lập, Tổng cục Kỹ thuật đã hoàn thành tốt chức năng nhiệm vụ, nhưng do tình hình có nhiều thay đổi, tổ chức Tổng cục Kỹ thuật không còn phù hợp, nên cần phải tổ chức lại. Việc bảo đảm kỹ thuật đưa về quản lý theo ngành, như vậy mới có đủ điều kiện, quyền hạn chỉ đạo từ Bộ đến các cơ sở.

Ngày 3/3/1989, Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị định số 22/HĐBT thành lập Tổng cục Công nghiệp quốc phòng và Kinh tế, trên cơ sở hợp nhất và sắp xếp lại Tổng cục Kỹ thuật (Cơ quan quản lý các xí nghiệp sản xuất quốc phòng) với Tổng cục Kinh tế. Tiếp đó, ngày 24/12/1998, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 249/1998/QĐ-TTg thành lập và thay đổi một số tổ chức trực thuộc Bộ Quốc phòng. Trong đó, Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng và Kinh tế thôi nhiệm vụ giúp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về kinh tế, động viên công nghiệp và đổi tên thành Tổng cục Công nghiệp quốc phòng.

Trong thời kỳ đổi mới, hội nhập và phát triển, Tổng cục Công nghiệp đã tạo được bước phát triển mới, khá toàn diện trên các lĩnh vực hoạt động của ngành; luôn nắm vững chủ trương, quan điểm, phương châm chỉ đạo của Đảng được thể hiện trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 26/1/2022 của Bộ Chính trị (khóa XIII) “Về đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo”. Trong đó xác định “Xây dựng nền công nghiệp quốc phòng chủ động, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại” và “trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia”, “công nghiệp quốc phòng phải làm chủ được công nghệ tiên tiến, hiện đại” đáp ứng nhiệm vụ xây dựng Quân đội hiện đại, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Tổng cục đã huy động được sức mạnh, trí tuệ tập thể trong nghiên cứu khoa học-công nghệ, sáng kiến và sáng chế; trang, thiết bị được đầu tư nâng cấp, đổi mới, hiện đại hóa và có bước nhảy vọt; tổ chức lực lượng công nghiệp quốc phòng được củng cố, kiện toàn, phù hợp yêu cầu, nhiệm vụ quân đội, ngày càng gắn kết, hòa nhập với công nghiệp quốc gia.

Nhiều sản phẩm vũ khí trang bị do Công nghiệp quốc phòng Việt Nam sản xuất đã đạt trình độ khoa học công nghệ ngang tầm khu vực và thế giới. Các dự án đầu tư phát triển công nghiệp quốc phòng, nhất là các dự án trọng điểm, công nghệ cao được triển khai quyết liệt, đúng định hướng và đã đưa vào khai thác, sử dụng hiệu quả; nâng cao năng lực, trình độ và hiện đại hóa công nghiệp quốc phòng quốc gia, từng bước đáp ứng yêu cầu trang bị cho các lực lượng vũ trang huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và đánh trả khi có chiến tranh công nghệ cao.

Trải qua 80 năm xây dựng và phát triển, qua hoạt động thực tiễn lao động, sản xuất và chiến đấu, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên đã vun đắp nên truyền thống tốt đẹp “Tự lực, tự cường, đổi mới, sáng tạo” của Cục Quân giới trước đây và Tổng cục Công nghiệp quốc phòng ngày nay, xứng đáng với phần thưởng cao quý mà Đảng và Nhà nước trao tặng: Huân chương Sao Vàng; Huân chương Hồ Chí Minh; Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và nhiều phần thưởng cao quý khác.

Nội dung: PHAN ÁNH TUYẾTTrình bày: Diệc DươngẢnh: Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam

Mỹ thuật Việt Nam thời hiện đại (từ cách mạng 1945 đến nay) Nói tới Việt Nam là chúng ta nói tới một dân tộc so bốn ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Có biết bao nhiêu là sử sách đã ghi lại những chiến công hào hùng, vẻ vang của quân và dân ta qua các cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc.Bên cạnh truyền thống đấu tranh chống giặc giữ nước thì dân tộc ta còn có một nền nghệ thuật phát triển khá sớm, ngay từ thời tiền sử. Chúng ta đã tìm thấy những dấu vết đầu tiên của nghệ thuật tạo hình đó là những hình chạm khắc trên đá ở các hang; các đồ dùng sinh hoạt, cảnh săn bắn.. trải qua những bước ngoặt thăng trầm của đất nước nền nghệ thuật nước nhà cũng chịu ảnh hưởng không ngừng cho tới nay. Biến đổi nổi bật nhất là mỹ thuật Việt Nam thời hiện đại (từ cách mạng 1945 đến nay).+ Những ngày đầu cách mạng và kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954).Cách mạng tháng 8/1945 thành công đưa đất nước vào kỷ nguyên Độc lập - Tự do - Hạnh phúc. Đồng thời cũng mở ra một trang sử mới cho mỹ thuật Việt Nam.Từ những hạt nhân là một số hoạ sỹ hoạt động bí mật trong những " tổ chức văn hoá cứu quốc thời tiền khởi nghĩa ". Giờ đây cả giới mỹ thuật bị cuốn hút vào thể loại vẽ tranh cổ động biểu thị ý chí toàn dân quyết tâm bảo vệ nền độc lập tự do của Tổ quốc với nhiều chất liệu khác nhau những tác phẩm này đã hướng mỹ thuật Việt Nam vào con đường mới, với nhân sinh quan cách mạng. Một số hoạ sỹ còn phân vân với những níu kéo của thẩm mỹ cũ, thì Hồ Chí Minh sau khi xem triển lãm đã góp ý chân tình " các chú vẽ nhiều thiếu nữ khoả thân, vẽ nhiều hoa, cái ấy cũng đẹp, nhưng đẹp trên cao, sao các chú không vẽ cái đẹp dưới đất chung quanh chúng ta ".Đồng thời tháng 10/1945 trường Cao đẳng mỹ thuật được mở ra nhưng do chiến tranh không học được. Song được cách mạng cổ vũ và lãnh tụ quan tâm, các hoạ sỹ và các nhà điêu khắc đã tự tin, tích cực chuẩn bị cho cuộc triển lãm mỹ thuật toàn quốc đầu tiên trong chế độ mới và các hoạ sỹ đã giành cả tâm huyết của mình trong việc sử dụng ngòi bút làm vũ khí tố cáo tội ác của thực dân Pháp, phát xít Nhật, ca ngợi lãnh tụ và các anh hùng thời đại: Tranh tượng về Bác Hồ (Tô Ngọc Vân, Nguyễn Đỗ Cung, Phan Kế An..) tự vệ chiến đấu (Văn Bình).. đã báo hiệu sự ra đời của nền nghệ thuạt cách mạng.Và rồi chiến tranh lan dần từ miền Nam ra cả nước, cho đến cuối 1940 cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ đi liền với sự nghiệp kháng chiến toàn dân, toàn diện là sự chuyển mình của các hoạ sỹ. Họ nghe theo tiếng gọi của nước của dân tộc cho nên đa số các hoạ sỹ đều cầm súng, vừa cầm bút vẽ tranh để tuyên truyền cho kháng chiến thể loại ký hoạ, tranh khắc gỗ, bột màu, thuốc nước, chì, tranh sơn mài được dùng nhiều với những tác phẩm đạt giá trị cao cả ở nội dung và nghệ thuật, được giới thiệu ở các triển lãm mỹ thuật chào mừng sự kiện lớn trong cả nước.Năm 1948 nhân dịp đại hội văn hoá toàn quốc ở miền Bắc, một cuộc triển lãm hội hoạ lớn gồm các tác phẩm kháng chiến đã được tổ chức, điển hình là tác phẩm: Dân quân phù lưu (Nguyễn Tự Nghiêm), Gặt lúa (Mai Văn Hiển), Người du kích già (Phạm Văn Đôn).. đã phản ánh cuộc chiến tranh nhân dân thần thánh với niềm lạc quan tất thắng.Năm 1951 sau chiến thắng thế giới ở miền Bắc lại tổ chức một cuộc triển lãm mỹ thuật với quy mô lớn; nhân dịp này Bác đã gửi thư tới các hoạ sỹ và nghệ sỹ " Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em là chiến sỹ trên mặt trận ấy " và nêu rõ nhiệm vụ của chiến sỹ nghệ thuật là phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự quân dân trước hết là công nông binh lời của Bác thật sâu sắc, ấm tình người, Bác là nhà cách mạng vĩ đại và cũng là một người rất am hiểu nghệ thuật. Năm 1952 tại Việt Bắc trường Trung cấp mỹ thuật được thành lập do hoạ sỹ Tô Ngọc Vân làm Hiệu trưởng, đã đào tạo ra một thế hệ hoạ sỹ đầu tiên cho kháng chiến, những cuộc triển lãm lớn với nhiều tác phẩm nghệ thuật giá trị của họ như tác phẩm " Bác Hồ với các cháu thiếu nhi Trung - Nam - Bắc của hoạ sỹ Diệp Minh Châu " là bức tranh nổi tiếng mà ông vẽ bằng máu của chính mình trên lụa, là một hoạ sỹ - một nhà điêu khắc tài ba, ông sinh năm 1919 tại Nhơn Hạnh - Bến Tre. Tốt nghiệp trường Cao đẳng mỹ thuật Đông Dương 1945. Tiêu biểu cho thế hệ các hoạ sỹ miền Nam đi theo kháng chiến. Ngoài ra còn có tác phẩm " Du kích tập bắn " (Nguyễn Đỗ Cung) cũng là tác phẩm nổi tiếng ở thời kỳ này, " Hành quân qua đèo " (Nguyễn Như Hậu).. những tác phẩm này đã cổ vũ lớn lao, động viên kịp thời quân dân xông lên diệt giặc (mang giá trị nghệ thuật và giá trị lịch sử).Vào giai đoạn cuối của kháng chiến chống Pháp, các hoạ sỹ tích cực thâm nhập vào cả hai trận địa phản phong và phản đế, có người đã đổi cả chính cuộc đời nghệ thuật như hoạ sỹ - liệt sỹ (Tô Ngọc Vân) sinh 1906 - 1954 tại Hà Nội. Tốt nghiệp trường Cao đẳng mỹ thuật Đông Dương 1931, là Hiệu trưởng đầu tiên của trường mỹ thuật kháng chiến mở ở chiến khu Việt Bắc. Là một hoạ sỹ nổi tiếng của mỹ thuật Việt Nam hiện đại, trước cách mạng vẽ tranh các thiếu nữ thị thành đài các (thiếu nữ bên hoa huệ, 2 thiếu nữ..) sau cách mạng tháng 8 và kháng chiến ông chuyển sang vẽ tranh về chiến sỹ vệ quốc đoàn, những ông già nghệ thuật chất phác, những cô thôn nữ người dân tộc thuỳ mị.. ký hoạ là một thể loại nổi tiếng của ông với tác phẩm: Đốt đuốc đi học, chị cốt cán, con nghé quả thực ngoài ra còn có một số tác phẩm nổi tiếng của một số tác giả cùng thời: cái bát (Sỹ Ngọc), vệ quốc quân canh đêm (Nguyễn Tự Nghiêm)..+ Nền mỹ thuật Việt Nam trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975).Giữa năm 1954 cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, hoà bình lập lại trong cả nước giới mỹ thuật có điều kiện tập trung về thủ đô Hà Nội, họ tổ chức một cuộc triển lãm thực sự mang tính toàn quốc, là sự tổng kết của mỹ thuật kháng chiến. Từ đây có nhiều công trình mỹ thuật được xây dựng như: 1957 hội mỹ thuật Việt Nam được thành lập, trường Trung câp mỹ thuật được nâng cấp thành trường Cao đẳng. 1962 viện mỹ thuật - mỹ nghệ được thành lập, 1966 bảo tàng mỹ thuật nhánh thành.. tất cả nói lên tiềm năng của mỹ thuật cách mạng thật dồi dào, và được giới thiệu ra thế giới tiêu biểu với những tác phẩm: " Nhớ một chiều Tây Bắc " (Phan Kế An) là hồi ức về một dĩ vãng đầy hào hùng, đầy oanh liệt, đầy tình yêu người, yêu thiên nhiên, một dĩ vãng đầy hào húng đã đi vào lòng người bao thế hệ con cháu đất Việt, hình dáng đoàn quân chiến sỹ nhỏ bé so với núi rừng nhấp nhô, hùng vĩ, càng tăng thêm lòng quyết tâm rất cao của các chiến sỹ này.Tác phẩm " Bình minh trên nông trang " (Nguyễn Đức Nùng) được vẽ bằng màu bột với mảng màu nóng rực, rắn chăc, đã diễn tả hình dáng của một anh bộ đội với cánh tay rắn chắc, hoành tráng trước một thiên nhiên rộng lớn, lấp lánh ban mai.Tác phẩm này diễn tả cảnh tát nước rất sôi động của nhóm người nông dân, họ vui vẻ, cười đùa, cùng nhau tát những gàu nước vào đồng, " Tát nước đồng chiêm " là một bài thơ ca ngợi cuộc sống lao động của người nông dân tạo niềm tin cho tiền phương về một hậu phương vững chắc..Với ta tác phẩm trên chứng tỏ trong thời kỳ chống Mỹ này tranh sơn mài rất phát triển, được nhiều hoạ sỹ rất thành công, sự thắng lợi của họ cũng phần nào đóng góp cho nền mỹ thuật thời kỳ này càng thêm phong phú hơn và nhiều cuộc triển lãm đã được mở ra trên toàn quốc: 1960 - chào mừng đại hội lần thứ III của Đảng và 1963 triển lãm mỹ thuật toàn quốc, mà người ta nhớ mãi: " Hành quân trong rừng " (Nguyễn Khang), " Nam kỳ khởi nghĩa " (Huỳnh Văn Gấm), " Giờ học tập " (Nguyễn Sáng)..Dân tộc ta thoát khỏi gánh nặng áp bức của thực dân Pháp chẳng được bao thì đế quốc Mỹ lại nhảy vào phá hoại miền Bắc (1964), nhân dân miền Bắc lại bắt đầu một cuộc kháng chiến gian khổ để đấu tranh bảo vệ nền độc lập - tự do của mình. Tuy nhiên, các hoạ sỹ, và nhà điêu khắc lại thích ứng hoàn cảnh mới này rất nhanh, một mặt lên đường đến những nơi nóng bỏng nhất để ghi chép, sáng tác, không ít trong số đó đã đi mà không bao giờ trở lại.Hiện thực chiến đấu sản xuất của quân dân đã đi vào tranh tượng, vừa động viên mọi người vượt lên mọi thử thách của chiến tranh, vừa tranh thủ sự đồng tình của thế giới. Bên cạnh các thể loại: sơn mài, sơn dầu, lụa thì đồ hoạ đặc biệt phát triển, các tranh khắc gỗ " Cồn cỏ anh hùng " (Quang Thụ), " Thanh niên xung phong ", " Chuyển tải đêm " (Giáng Hương).. và một số tranh cổ động gây xúc động lòng người: " Có gì quý hơn độc lập tự do " (Phan Thông), " Giữ lấy quê hương ", " Giữ lấy tuổi trẻ " (Đường Ngọc Cảnh)..Ngoài ra nghệ thuật điêu khắc cũng được khởi sắc, thành tựu được thừa nhận ở triển lãm 10 năm điêu khắc hiện đại Việt Nam (1963 - 1973): tượng tròn, chạm nổi, đắp nổi. Điều lý thú là chính trong chiến tranh tượng đài lại phát triển ngay ở nơi rực lửa như: nam ngạn chiến thắng (Thanh Hoá 1967), tượng các anh hùng liệt sỹ " Lý Tự Trọng, Kim Đồng .." dựng ở thủ đô khích lệ tuổi trẻ cùng nhân dân cả nước kiên cường, quyết chiến, quyết thắng, có nhiều cuộc triển lãm đã diễn ra đặc biệt là cuộc triển lãm toàn quân 1974 thật sôi động.Nền mỹ thuật Việt Nam đã phát triển rất mạnh, dẫn chứng đó là những thành tựu của mỹ thuật cách mạng Việt Nam được dự triển lãm ở nước ngoài như: 1956 tại 3 nước XHCN Châu á (Trung Quốc, Triều Tiên, Ma Cao), 1959 tại 8 nước XHCN Châu Âu. Triển lãm mỹ thuật Việt Nam luôn giành được cảm tình của nhân dân thế giới.Trong sự phát triển của mỹ thuật trên đây có cả chiều rộng và chiều sâu, chưa bao giờ có một đội ngũ tạo hình đông đảo đi vào mọi mặt của cuộc sống sôi động. Từ đó lại dẩy lên phong trào mỹ thuật không chuyên ở khắp các mặt trận sản xuất và chiến đấu, các hình tượng nghệ thuật đã được khẳng định và đi vào lịch sử. Các hoạ sỹ đã vẽ rất nhiều chủ đề, đề tài trong cuộc sống, chiến đấu khác nhau.Trước hết là hình ảnh người chiến sỹ. Hoạ sỹ (Nguyễn Sáng) rất thành công ở đề tài này với " Giặc đốt làng tôi " diễn tả cảnh người phụ nữ và em be dân tộc phải đưa nhau đi di cư vì làng bị giặc đốt phá cùng với những hình ảnh đó hình ảnh một chiến sỹ bộ đội.Tác phẩm " Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ " là tác phẩm diễn ra sự căm thù đã thành sức mạnh quyết chiến, quyết thắng càng hy sinh, càng kiên định lập trường, cả một tập thể gắn bó theo Đảng, dựng hình đơn giản về nét và màu, bố cục thoáng và rất khoẻ. Tác phẩm " Tiếng đàn bầu " (Sỹ Tốt).. và một hình ảnh cũng rất gần gũi, họ là lực lượng nòng cốt, chính trong cuộc đấu tranh này đó là hình ảnh người nông dân, họ vào tranh cũng thật xôn xao. Trong số họ, có những người không trực tiếp tham gia chiến đấu trên trận tuyến mà họ chiến đấu ngay tại quê (hậu phương) sản xuất lương thực phục vụ tuyền tuyến như tác phẩm " Con nghé " (Nguyễn Tự Nghiêm), " Tổ đội công miền núi " (Huỳnh Tích Chù), " Con nghé của thực " (Tô Ngọc Vân), " Về nông thôn sản xuất " (Ngô Minh Cầu), " Một buổi cày " (Lưu Công Nhân).. Bên cạnh nền nông nghiệp xã hội mới còn gắn dần với công nghiệp và hình ảnh người công nhân cũng chiếm chỗ trong tranh một cách đĩnh đạc như các tác phẩm: " Mỏ đèo nai " (Nguyễn Tiến Chung), Một loạt tranh (Nguyễn Đỗ Cung) như: Công nhân cơ khí, học hỏi lẫn nhau, tam ca, mời chị em ra họp để thi thợ giỏi.. đã nêu bật những gương sáng lao động, gian khổ nhưng chủ động, chững chạc. Tác phẩm " Công nhân cơ khí " diễn tả giờ làm việc trong nhà máy chỉ với ngòi bút và tầm quan sát tinh tế của mình, hoạ sỹ Nguyễn Đỗ Cung đã cho người xem một không khí làm việc hăng say, khoẻ khoắn, rắn chắc của những người công nhân này. Họ hầu như quên hết mệt nhọc chỉ dồn sức vào lúa và rồi tạo ra những công cụ lao động và cũng có thể là vũ khí chiến đấu..Và hình tượng người phụ nữ chiếm tỷ lệ khá lên trong các tác phẩm thời kỳ này, họ vừa đảm việc nhà, lại vừa đảm việc nước, ở thời kỳ này họ không còn là những tiểu thư đài các, cũng không phải là những lao động vặt vãnh nữa mà thực sự làm chủ gia đình, xã hội, tham gia sản xuất cả nông và công nghiệp như ở các tác phẩm " Nữ dân quân vùng biển " (Trần Văn Cẩn), " Sau giờ trực chiến " (Nguyễn Phạm Chánh). Họ cũng thường được dựng tượng để ca ngợi như tượng " Võ Thị Sáu, Tác phẩm nắm đất miền Nam " là một tác phẩm tượng thạch cao: Người mẹ trao cho anh bộ đội, Người con trước lúc lên đường, Một nắm đất quê hương, dáng người mẹ đầy tình thương trìu mến nhìn con, dáng người gầy gò, chắc phải chịu nhiều đau khổ, mất mát..Nhưng có lẽ tập trung hơn cả vẫn là hình tượng vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc đó là hình tượng " Bác Hồ " hầu như cuốn hút tất cả các nghệ sỹ tạo hình, vào tranh tượng với rất nhiều chất liệu khác nhau, dưới mỗi một con mắt của mỗi hoạ sỹ, vẻ đẹp của Bác lại càng đẹp hơn ở một khía cạnh nào đó. Hình tượng Bác là hình tượng của dân tộc Việt Nam kiên cường, bất khuất, không đếm hết được hết số tác phẩm vẽ tượng.. về Bác.+ Bên cạnh sự đổi thay, phát triển nhìn chung của mỹ thuật Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp - Mỹ thì ở miền Nam (1954 - 1975) nền mỹ thuật lại bị rơi vào sự phức tạp:Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ - ne - vơ được ký kết. Đất nước ta tạm chia làm hai miền: miền Bắc bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục đấu tranh chống đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai để hoàn thành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Năm 1954 trong làn sóng di cư, miền Nam có thêm những hoạ sỹ " có tay nghề từ Bắc vào " họ ý định xây dựng một nền mỹ thuật trên " một quốc gia tự do " và xây dựng một nền nghệ thuật đối lập với miền Bắc của chính quyền Sài Gòn.Trong thời điểm này, trường Cao đẳng mỹ thuật Gia Định và Huế được thành lập, giảng viên là các hoạ sỹ trường Cao đẳng mỹ thuật Đông Dương. Học sinh là người di cư từ Bắc vào, không khí mỹ thuật ở miền Nam đã được đổi mới, những sự phức tạp về tư tưởng đã dẫn đến sự phức tạp về nghệ thuật cụ thể: trong khi trường Cao đẳng Gia Định tập trung đào tạo theo trường quy, hăng hái hoạt động văn hoá nghệ thuật, một nhóm văn nghệ sỹ ra đời với những màu sắc chính trị khác nhau, trong đó tiêu biểu có nhóm sáng tạo gồm: hoạ sỹ Thái Tuấn, Duy Thanh, Ngọc Dũng.. chủ trương phá bỏ những kinh nghiệm trường quy cũ cố gắng tiếp cận với nghệ thuật phương Tây, đề cao các chủ quan của người sáng tác, không cần biết đến tính dân tộc, vồ vập màu sắc, và chất liệu để phô diễn hình thể hơn là đi tìm hình tượng của tác phẩm: chú trọng triển lãm cá nhân.Từ năm 1960 với sự can thiệp sâu hơn của Mỹ, một lối sống thực dụng lan tràn, nghệ thuật như trò chơi xã hội thương mại, các hoạ sỹ không chú trọng vẽ, thích vẽ sao thì vẽ. Cho đến giữa thập nguyên 60 nền nghệ thuật đã có phần ổn định, tỉnh nghộ hơn, thúc đẩy một ý thức tìm về nguồn. 1966 các hoạ sỹ trẻ có năng lực thành lập " Hội hoạ sỹ trẻ Việt Nam " đã khơi dậy ý thức trách nhiệm của người làm nghệ thuật. Một số ít phóng khoáng thực tại bằng cách lánh vào những cơn mơ với những tâm trạng day dứt: Nguyễn Trung, Nguyễn Phước, Đinh Cường.. Trong sự ngột ngạt ấy cũng có một số hoạ sỹ tiến bộ tích cực, có trách nhiệm hơn phản ánh nghệ thuật với một tình cảm của riêng mình: nếu " Nguyễn Trung mới miêu tả những gương mặt đau thương của những người mẹ, người vợ để tố cáo chiến tranh thì Văn Đen đã dùng bút pháp tả thực vẽ cảnh khốn khổ của những người lầm than để tố cáo xã hội phồn hoa bề ngoài ". Huỳnh Bá Thành đã có tranh vạch mặt kẻ thù trên báo chí.. chính họ đã làm cho chính quyền Sài Gòn phải run sợ và đã khủng bố điên cuồng cả bằng toà án và nhà tù. Tuy nhiên phong trào mỹ thuật vẫn đi lên, chính điều này đã thúc đẩy động lực cho những hoạ sỹ tiến bộ với sự giác ngộ cao đã đứng hẳn về phía cách mạng. lên chiến khu vừa cầm bút sáng tác, vừa cầm súng chiến đấu như anh Cổ Tấn Long Châu, Nguyễn Văn Kinh, Trọng Phương.. và cũng theo tiếng gọi cách mạng không ít những hoạ sỹ dám quên mình, không sợ nguy hiểm cho tính mạng đã hăng hái vào những nơi ác liệt nhất để ghi nhanh những cảnh hiếm thấy trong lịch sử, để kịp thời động viên khích lệ ý chí, lòng quyết tâm cao để dành thắng lợi, ghi lại những giây phút huy hoàng, căng thẳng.. Đáng tiếc thay đã có 50 hoạ sỹ đã hy sinh trong khi đang sáng tác trên trận địa những tác phảm được các hoạ sỹ ghi lại sau này đã trở thành những tư liệu rất quý giá để vừa động viên quân dân ta, bên cạnh vạch trần rõ bộ mặt độc ác của bọn cướp nước. Mặc dù trong hoàn cảnh thiếu thốn, khó khăn, ác liệt ấy, các hoạ sỹ vẫn đam mê với sự nghiệp sáng tác của mình và đã có hàng vạn tác phẩm có giá trị rất cao đã ra đời không chỉ phổ biến trong nước mà cả nước ngoài như tác phẩm " Nhớ một chiều Tây Bắc, Bác Hồ với thiếu nhi ba miền Trung - Nam - Bộ, chị Võ Thị Sáu, Chú bé liên lạc .." và cũng vì điều kiện trên trận tuyến thiếu thốn chất liệu, hầu như hoạ sỹ đều ký hoạ cho nên ký hoạ được đưa lên thành một thể loại tác phẩm nghệ thuật đặc biệt của Việt Nam, là bản trường ca hùng tráng của giai cấp lịch sử hào hùng, của một số tác giả: Huỳnh Phương Đông, Thái Hà, Cổ Tấn Long.. những tác phẩm của họ đã kịp thời cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân và dân ta trong chống kẻ thù góp phần giải phóng miền Nam. Từ sau chiến thắng 1972 đã tổ chức được các triển lãm mỹ thuât ở Lộc Ninh. 1973 đến 1975 càng ngày càng nhiều với quy mô lớn hơn, để rồi đến ngày toàn thắng ở câu lạc bộ lao động vào tháng 5/1975 một cuộc triển lãm mừng chiến công đại thắng của dân tộc diễn ra trong không khí tưng bừng, phấn khởi đã lan khắp cả nước, gây xao động của toàn dân, toàn quân ta.Các hoạ sỹ vùng giải phóng cũng gia nhập vào, họ đã hưởng ứng bằng 800 tranh cổ động. Từ đây nền mỹ thuật Việt Nam đã có được sự hài hoà, hoà nhập giữa các hoạ sỹ vùng chiến khu với các hoạ sỹ vùng mới giải phóng, nền mỹ thuật cả nước trở về một khối.Nhìn chung, nền mỹ thuật Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Tuy gặp nhiều khó khăn, sự cản trở của đế quốc, áp đặt lên nền kinh tế xã hội, ngay cả nền mỹ thuật, thiếu thốn về chất liệu, nguyên liệu sáng tác nhưng các hoạ sỹ thời kỳ này vẫn không ngừng sáng tác, tạo ra được nhiều tác phẩm với giá trị lịch sử khá cao, có nhiều tác phẩm ngày nay được dùng làm tài liệu vô giá của lịch sử nước nhà một thời máu lửa và hào hùng, nhiều tên tuổi tác giả thành danh không chỉ trong nước mà cả trên thế giới, mỗi hoạ sỹ một phong cách riêng, nhưng tất cả cũng vì mỹ thuật, vì cái đẹp, vì nền độc lập của nước nhà như: Hoạ sỹ Tô Ngọc Vân, Nguyễn Sáng, Diệp Minh Châu.. phần lớn các tác phẩm này ra đời với mục đích cổ vũ, động viên khích lệ, ca ngợi công cuộc chiến đấu cho nền độc lập nước nhà của quân dân Việt Nam, đồng thời vạch trần bộ mặt xấu xa, bẩn thỉu của bọn đế quốc..+ Nó là nền tảng đầu tiên, góp phần thúc đẩy, làm cầu nối cho một nền mỹ thuật mới ra đời đó là nền mỹ thuật Việt Nam sau ngày thống nhất đất nước.Từ năm 1975 đã hội tụ thành một dòng chảy lớn mà thành tựu đã được ghi nhận bằng vô số những cuộc triển lãm lớn của cá nhân, của nhóm, .. và nhất là triển lãm mỹ thuật toàn quốc mở đều đặn năm năm một lần, điều này chứng tỏ rằng khuynh hướng con đường phát triển của nền mỹ thuật Việt Nam khi đất nước thống nhất đã được quan tâm hơn, chú trọng hơn rất nhiều, mở ra một hướng đi lên mạnh mẽ của nền mỹ thuật. Đến đây mỹ thuật đã có dấu hiệu của sự chuyển mình từ một nền mỹ thuật gắn bó với chiến tranh đang bước sang phản ánh cuộc sống hoà bình xây dựng xã hội chủ nghĩa như tác phẩm: " Phố cổ " (Bùi Xuân Phái) đây là tác phẩm được vẽ bằng sơn dầu, diễn tả một góc nhỏ phố cổ của Hà Nội, là đề tài luôn được Bùi Xuân Phái say mê khám phá, sáng tác. Những cảnh phố vắng với những đường nét xô lệch, mái tường rêu phong, những đầu hồi và mái ngói đen sạm màu thời gian luôn xuất hiện trong tranh của ông. Tranh của hoạ sỹ gợi cho mỗi người đi xa luôn khát khao, cảm nhận được nỗi thiếu vắng Hà Nội một cách sâu sắc. Đằng sau những hình ảnh ngõ Phất Lộc, cây đa cổ thụ ở ngõ Gạch hay ngõ Hàng Mắm.. người xem tìm thấy vẻ đẹp của thủ đô Hà Nội qua những thăng trầm của lịch sử. Vì thế, người yêu nghệ thuật đã đặt tên gọi cho những tác phẩm về phố cổ Hà Nội của ông là " Phố phái ". Ngoài Bùi Xuân Phái còn rất nhiều hoạ sỹ khác nữa, với các tác phẩm mang nội dung cuộc sống hàng ngày bình dị: Điện về bản (Hà Cắm), Bộ đội về bản Mèo (Trần Lưu Hậu), Ngày vui có Bác (Xuman)..Sau 5 năm đất nước bước vào kỷ nguyên mới, triển lãm mỹ thuật toàn quốc năm 1980 thực sự là một cuộc hội tụ lớn của nghệ thuật tạo hình cả nước, là một bước tiến nhảy vọt, bộc lộ tiềm năng sáng tác mới hứa hẹn bước phát triển mạnh mẽ trong những năm tới - nhất là về mặt ngôn ngữ nghệ thuật. Tiêu biểu một số tác phẩm như: Tượng Bác Hồ bên suối Lênin (Diệp Minh Châu), Mẹ chiến sỹ (Hoàng Trầm), Đảo tiền tiêu (Tạ Quang Bạo)..Ngày nay vẫn không ít nhiều tác giả vẫn đang rất say sưa với đề tài cách mạng, tình cảm, tình quân dân, tuy cuộc kháng chiến đã qua những ký ức trong một số người hoạ sỹ lão thành vẫn còn như ngày nào. Họ một phần phục hồi lại ảnh cũ, một phần họ vẽ theo sự hồi tưởng, ký ức của chính mình như tác phẩm: Bà má Mậu Thân là tác phẩm với chất liệu phấn màu, bố cục chỉ có bà mẹ với người lính trẻ. Nhưng gây cho người độc một cảm giác ấm áp, chứa chan tình cảm, và trên khuôn mặt của bà má Mậu Thân này có vẻ gì đó trầm tư, chịu nhiều đau khổ, có thể người phụ nữ này đã khóc rất nhiều, nhưng khuôn mặt này thật hiền hậu, tiêu biểu của các bà mẹ miền Nam anh hùng, còn anh lính trẻ trong vòng tay của " m á" mắt nhìn xuống, hình như anh đang suy nghĩ, đang cảm nhận tình cảm thiêng liêng ấy. Đây quả là một tác phẩm đẹp cả về nội dung lẫn bố cục, là móc xích giữa nghệ thuật thời thống nhất với kháng chiến.Không riêng nội dung thay đổi mà chất liệu mỹ thuật thời nay cũng đa dạng, phong phú hơn rất nhiều, các hoạ sỹ hầu như không bị gò bó vào một khuôn khổ nào, họ thoả thích sáng tác, chất liệu mỗi người một khác nhau: mau dầu, sơn dầu, phấn màu, mực nho, mực bột, sơn mài.. sự đa dạng của chấ liệu, đã nâng cao phong phú cho các tác phẩm.Với sự hoà nhập thực sự của nghệ sỹ hai miền Nam - Bắc và sự có mặt của các hoạ sỹ lão thành: Nguyễn Văn Tỵ, Lương Xuân Nhị, Nguyễn Tự Nghiêm.. đã góp phần làm cho mỹ thuật Việt Nam có sự phát triển hẳn lên, có sự tìm tòi là dấu hiệu của việc đổi mới nghệ thuật, báo hiệu trước cho sự đổi mới của xã hội một xã hội văn minh - giàu mạnh.Sau đại hội Đảng thứ 6 (1986) khẳng định đổi mới chiến lược cách mạng mở cửa đất nước, làm bạn với các nước, chuyển dần sang kinh tế thị trường, mọi người, mọi ngành phải " tự cởi trói " thì mỹ thuật cũng cuốn vào dòng chảy ấy với sự nỗ lực của cả thế giới, của từng người. Đại hội lần thứ 3 của Hội nghệ sỹ tạo hình Việt Nam (1989) khẳng định: Đã có một thời kỳ rất sôi nổi nhờ sự tham gia tự nguyện sáng tác của hội viên, đã chủ động tạo ra một không khí dôi nổi trong cả nước và xác định mạnh mẽ vai trò văn hoá xã hội của nghệ thuật tạo hình.. có thể coi đây là giai đoạn tổng kiểm kê các tiềm năng mỹ thuật. Chỉ trong vòng có 5 năm (1984 - 1989) mà đã có 118 triển lãm của 3778 lượt tác giả trưng bày 8879 tác phẩm là cả một sự " bung ra " với nhiều đề tài "đ ời thường ", thể loại tranh hoành tráng, phong cảnh, tượng đài, tranh tĩnh vật (tĩnh vật hoa) sơn dầu của hoạ sỹ Lưu Yên khối mảng rất rõ rệt, màu sắc hài hoà, mạnh mẽ nhưng không cứng nhắc, là một bức hoạ đẹp, cân đối. Thể hiện thật tinh tế, giản dị nhưng rất nghệ thuật.. Giờ đây các hoạ sỹ đều xâm nhập, sâu sát với xã hội, làng xóm.. để lấy tình cảm hứng sáng tác tranh, có những tác phẩm rất mộc mạc chân quê như tác phẩm: Vợ chồng người hàng nước cũng với bố cục gồm hai người, xung quanh họ là những đồ dùng thô sơ, giản dị, cốc nước, ấm.. không khí thật ấm cúng khối mảng rõ ràng, được sáng tác 1996.. Tác phẩm " Ngày mùa ở Đông Anh Hà Nội " là tác phẩm ca ngợi về nông nghiệp, chất liệu bằng màu dầu, tác giả dựng lên một bố cục hài hoà cân đối, những đống rơm cao ngất, một người phụ nữ đang làm việc một con trâu và một người con trai đang gánh cũng chỉ hai người nhưng nhìn vào có cái gì đó rất đậm không khí miền quê: yên tĩnh, thanh bình.. đây cũng là một đề tài được rất nhiều hoạ sỹ thành thị ưa thích, họ đã có những chuyến đi xâm nhập ở nông thôn hàng tháng có khi cả đời để tìm động lực sáng tác. Ngoài ra còn có tác phẩm bằng lụa của Ngô Minh Cầu cũng đề tài những con người nơi thôn quê cùng con trâu.Nhìn chung các hoạ sỹ thời nay đã tìm cho mình một con đường riêng, thể hiện với một thái độ tình cảm trong toàn tác phẩm, chính vì vậy mỗi tác phẩm ra đời là một niềm vui lớn với họ, họ coi tác phẩm như "đ ứa con " của họ, họ nâng niu trân trọng. Bước sang thập kỷ 90, công cuộc đổi mới đã có kết quả rõ rệt, đất nước khởi sắc hẳn lên, mỹ thuật cũng đạt được những thành tựu rự rỡ. Các ngành đều có hoạt động sôi nổi nền hội hoạ có những ưu thế thuận lợi về cách hoạt động và thu hút được nhiều hướng đi vào đời sống: tượng đài, đài tưởng niệm ở các trung tâm của các thành phố lớn, xuất hiện nhiều công trình kiến trúc có quy mô lớn bằng chất liệu vững, nhiều cuộc triễn lãm đã cùng diễn ra trong một lúc, triển lãm hội hoạ ngày nay đã trở thành sinh hoạt cập nhật của xã hội, hàng loạt các phòng tranh cứ mọc lên khắp nơi, nhưng tất cả không phải đều là tác phẩm kiệt tác, có thể có nhiều tác phẩm không mang một nội dung cụ thể nào, cứ lan man một phần cũng do cơ chế thị trường chạy theo lợi nhuận đồng tiền, họ đã đánh mất đi vẻ đẹp của " mỹ thụât ". Nhưng nhìn chung số lượng đó rất ít ỏi, bên cạnh có nhiều hoạ sỹ đã tổ chức cuộc triển lãm của mình ở nước ngoài, họ được hoạ sỹ nước bạn đánh giá rất cao đưa nền mỹ thuật nước nhà lên tầm cao mới.Ngày nay mỹ thuật được dựa vào cuộc sống rất nhiều, nó phổ biến, đem lại sự vui vẻ hay sự suy tư cho cuộc sống con người: tranh ảnh, tranh tết, tranh cổ động, quảng cáo.. đều mang chất nghệ thuật, nhu cầu cuộc sống đòi hỏi cái đẹp ngày một cao hơn, nhiều hơn gấp bội.Mỹ thuật Việt Nam đã có vạn năm phát triển kể từ văn hoá hoà bình.. trên lịch trình ấy có lúc chậm, lúc nhanh, thậm chí có giai đoạn mà tư liệu hiện nay còn thiếu vắng nhưng sự phát triển là rõ ràng, với đỉnh cao là trống đồng Đông Sơn, chùa tháp trong thời quân chủ Phật giáo, là đình làng trong thời quân Nho giáo.Từ đầu thế kỷ XX đến nay đã có sự chuyển hướng hoà nhập với nhiều giá trị tạo hình của nhân loại nhưng mang diện mao riêng. Mỹ thuật thời hiện đại là giai đoạn phát triển nhất, mỹ thuật đã làm đẹp cho xã hội, là biểu hiện cho trình độ văn hoá - văn minh Việt Nam, là vũ khí đấu tranh cho tiến bộ xã hội và ngày nay đang gắn chặt với sự nghiệp phát triển của đất nước theo hướng giàu sang.Cuộc sống con người cơ bản về vật chất đã đầy đủ, thì nhu cầu về mặt tinh thần của họ cũng càng cao hơn, họ đi tìm cái đẹp trong hội hoạ, chính thế mỹ thuật càng ngày càng phát triển nhằm phục vụ cuộc sống.