Hệ thống tài chính với vai trò là kênh dẫn vốn tới các khu vực trong nền kinh tế là bộ phận quan trọng đóng góp cho tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, đây cũng là nơi chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi mô hình tăng trưởng, trong đó có các chính sách về vốn đầu tư. Các tác động này bao gồm những yếu tố tích cực thúc đẩy sự phát triển của hệ thống tài chính và cả các yếu tố gây bất ổn tài chính.

Chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp

Chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp ảnh hưởng không nhỏ tới chính sách bán hàng.

Trong giai đoạn khó khăn, doanh nghiệp sẽ cần tăng chiết khấu cho đại lý, thả lỏng chính sách bán hàng hơn nếu muốn thúc đẩy doanh số.

Doanh nghiệp thường hoạt động tăng trưởng và suy yếu theo chu kỳ

Từ đó làm các khoản phải thu khách hàng, tồn kho tăng lên và tăng Thay đổi vốn lưu động năm đó.

Bạn phải cực kỳ tỉnh táo bởi tất cả các chỉ số tài chính của doanh nghiệp đều đẹp nhất khi chu kỳ kinh doanh đạt đỉnh…

Tuy nhiên khoản đầu tư đem lại lợi nhuận lớn nhất lại là khi doanh nghiệp đang ở vùng đáy.

Điều quan trọng là bạn cần xác định được lợi thế cạnh tranh bền vững, giúp doanh nghiệp tồn tại qua thời kỳ khó khăn.

Khi tìm hiểu về vốn của doanh nghiệp thì vòng quay vốn lưu động cũng là khái niệm bạn không nên bỏ qua…

Vòng quay vốn lưu động có thể hiểu là thời gian mà một doanh nghiệp hoàn thành một chu kỳ kinh doanh từ giai đoạn sản xuất đến bán hàng và thu hồi vốn.

Ví dụ, khi một doanh nghiệp hoàn thành một chu kỳ kinh doanh, từ quá trình sản xuất đến tiếp thị và thu về tiền bán hàng, ta nói rằng doanh nghiệp đã hoàn thành vòng quay vốn.

Chỉ số vòng quay vốn lưu động càng lớn, cho thấy doanh nghiệp hoạt động kinh doanh ổn định và sử dụng vốn hiệu quả.

Ngược lại, nếu chỉ số vòng quay thấp, đó là dấu hiệu cho thấy doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc sản xuất, lưu thông hàng hóa và thu hồi vốn.

Trễ hẹn trong chu kỳ kinh doanh có thể dẫn đến tình trạng tồn kho cao, hiệu suất kinh doanh kém, và doanh thu không tăng trưởng.

Vòng quay vốn lưu động là bao nhiêu là đủ?

Vòng quay vốn lưu động bao nhiêu thì đủ là một câu hỏi khá phức tạp và không có câu trả lời cụ thể.

Vòng quay vốn cao thường cho thấy doanh nghiệp đang phát triển tốt và có khả năng thu hồi vốn nhanh chóng.

Ngược lại, vòng quay vốn thấp có thể cho thấy doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong hoạt động và thu hồi vốn chậm.

Tuy nhiên, không có một con số cụ thể để xác định mức độ vòng quay vốn lưu động lý tưởng.

Quan trọng hơn là doanh nghiệp phải quản lý tốt các khía cạnh tài chính như tiền mặt, hàng tồn kho, thu nợ… Điều này sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường vòng quay vốn và cải thiện hoạt động kinh doanh.

Do đó, thay vì tìm kiếm một con số cụ thể, doanh nghiệp cần chú trọng vào việc quản lý tài chính hiệu quả để tăng cường vòng quay và nâng cao hiệu suất hoạt động kinh doanh.

Với các nhà đầu tư, bạn có thể tiến hành tính toán vòng quay vốn lưu động giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành để làm cơ sở so sánh

Tóm lại vốn lưu động là một thước đo tài chính thể hiện nguồn lực sẵn có, phục vụ cho các hoạt động diễn ra hằng ngày của doanh nghiệp.

Vốn lưu động càng lớn càng tốt, nó có thể cho bạn biết khả năng duy trì hoạt động liên tục của doanh nghiệp.

Tuy nhiên khi sử dụng chỉ số này bạn cần chú ý:

Ngoài ra bạn cũng cần nắm thật chắc khái niệm về vòng quay vốn lưu động để hiểu rõ hơn về vốn lưu động

Sau gần 40 năm đổi mới và mở cửa, thu hút vốn FDI của Việt Nam đã có nhiều thành tựu nhưng vẫn còn tồn tại những vấn đề cần khắc phục. Những phát triển vượt bậc trong thu hút vốn FDI thời gian qua đã giúp Việt Nam là một trong 20 quốc gia thu hút FDI nhiều nhất thế giới và trở thành địa điểm đầu tư tin cậy và hiệu quả cho các nhà đầu tư nước ngoài (UNCTAD, 2021). Cho đến nay, Việt Nam đã thu hút được gần 438,7 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài. Trong số này, đã có 274 tỷ USD đã được giải ngân, bằng 62,5% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực. Đến nay, 129 quốc gia, vùng lãnh thổ đã đầu tư vào Việt Nam. Các dự án FDI đã hiện diện tại 63/63 địa phương, vốn FDI cũng đã được đầu tư vào 19/21 ngành nghề sản xuất, kinh doanh của Việt Nam.

Măc dù đạt được những kết quả thu hút FDI ấn tượng, nhưng cho đến nay chất lượng thu hút vốn FDI ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, như: các dự án công nghệ cao và mang lại nhiều giá trị gia tăng chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong các dự án FDI; chưa thu hút được công nghệ nguồn; thâm dụng lao động còn lớn; liên kết giữa khu vực FDI và khu vực trong nước còn yếu; hiệu ứng lan toả từ doanh nghiệp FDI sang các doanh nghiệp trong nước vẫn chưa nhiều…

Những năm gần đây, cùng với sự thay đổi trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội trong và ngoài nước, Việt Nam quyết tâm có sự thay đổi chiến lược về chính sách để cải thiên chất lượng vốn FDI qua Văn kiện Đại hội XII, XIII của Đảng; Nghị quyết số 103/NQ-CP, của Chính phủ, ngày 29-8-2013; “Chiến lược và định hướng chiến lược thu hút FDI thế hệ mới giai đoạn 2018 - 2030” do Bộ Kế hoạch và Đầu tư với sự hỗ trợ của Nhóm Ngân hàng Thế giới công bố tháng 3-2018; Nghị quyết số 50-NQ/TW, của Bộ Chính trị ban hành ngày 20-8-2019, “Về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030”… Các chủ trương, chính sách này đã và đang được thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả thu hút vốn FDI vào Việt Nam. Tuy nhiên trên thực tế, thể chế, chính sách về đầu tư nước ngoài vẫn còn chồng chéo, chưa theo kịp yêu cầu phát triển; hệ thống tổ chức bộ máy và năng lực thu hút, quản lý đầu tư nước ngoài còn phân tán, chưa đáp ứng được yêu cầu; chính sách ưu đãi đầu tư còn dàn trải, chưa ổn định và thiếu nhất quán… Do vậy, việc phân tích, đánh giá những thành công, hạn chế trong quá trình hoàn thiện chính sách thu hút vốn FDI nhằm đề xuất giải pháp khắc phục những bất cập trong FDI là nhu cầu cấp thiết ở Việt Nam hiện nay.

Quá trình hoàn thiện các chính sách ưu đãi nhằm thu hút vốn đầu tư

Chính sách ưu đãi thu hút vốn FDI thể hiện chủ yếu ở các ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu và ưu đãi về tiếp cận đất đai.

Thứ nhất, đối với chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp. Trong từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp đã góp phần tạo môi trường bình đẳng giữa các đối tượng, phù hợp thông lệ quốc tế, khuyến khích các chủ thể tiến hành hoạt động đầu tư vào sản xuất, kinh doanh, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng tích lũy. Theo đó, mức thuế này đã được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội ở các giai đoạn khác nhau (từ mức thuế thu nhập doanh nghiệp 32% năm 1997 giảm còn 28% vào năm 2001, 25% vào năm 2009, 22% vào năm 2014 và từ 1-1-2016 đến nay là 20%). Trong giai đoạn 1987 - 2010, thực hiện cải cách thuế giai đoạn 1, 2, 3, để khuyến khích đầu tư trên cơ sở vẫn bảo đảm nguồn thu, Nhà nước đã giảm gánh nặng thuế qua việc giảm thuế suất, đơn giản hóa hệ thống thuế, mở rộng đối tượng chịu thuế. Chính sách thuế đã thể hiện rõ sự phù hợp với định hướng phát triển kinh tế của Nhà nước. Đó là: khuyến khích phát triển sản xuất, kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vốn vào những vùng có điều kiện tự nhiên khó khăn nhằm tạo nên sự phát triển đồng đều giữa các vùng trong cả nước, tiến tới hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý, tạo thu nhập bền vững và ổn định cho nền kinh tế.

Từ năm 2011 đến nay, Chính phủ thực hiện cải cách thuế giai đoạn 4. Trong giai đoạn này, bối cảnh kinh tế của đất nước có nhiều thay đổi. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, cùng với sự tăng trưởng dựa trên khai thác tài nguyên thiên nhiên, vốn và lao động chất lượng thấp, giá rẻ đã làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chậm lại, đòi hỏi Việt Nam phải thay đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, bảo đảm tính bền vững. Thêm vào đó, hội nhập kinh tế quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh theo hướng nâng cao chất lượng, phát triển theo chiều sâu. Luật thuế mới được ban hành và Luật sửa đổi, bổ sung các Luật thuế trong thời gian này cũng được xây dựng theo hướng phù hợp với những thay đổi nêu trên.

Mức thuế suất thu nhập doanh nghiệp trung bình hiện nay của Việt Nam là 20%, được quy định tại Điều 11 Thông tư số 78/2014/TT-BTC. Điều 19 Thông tư số 78/2014/TTBTC được sửa đổi tại Thông tư số 96/2015/TT-BTC quy định thuế suất ưu đãi từng trường hợp cụ thể đối với các doanh nghiệp với mức thuế suất 10% trong 15 năm; doanh nghiệp có thuế suất 10% trong suốt thời gian hoạt động; doanh nghiệp có mức thuế suất 15%; doanh nghiệp có thuế suất 17% trong 10 năm; doanh nghiệp có thuế suất 17% trong suốt thời gian hoạt động. Điều 20 Thông tư số 78/2014/TT-BTC của Bộ Tài chính được sửa đổi tại Thông tư số 96/2015/TT-BTC quy định về các trường hợp được miễn thuế 4 năm, giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo; trường hợp được miễn thuế 4 năm, giảm 50% thuế phải nộp trong 5 năm tiếp theo; trường hợp được miễn thuế 2 năm và giảm 50% thuế trong 4 năm tiếp theo. So với các nước khác trên thế giới, thuế thu nhập doanh nghiệp của Việt Nam thấp hơn mức trung bình hiện nay trên thế giới là 23,54%, cao nhất là châu Phi với 27,97%.

Hiện nay, các nước ASEAN đã thống nhất được mức thuế thu nhập doanh nghiệp thấp nhất. Quy tắc Thuế tối thiểu toàn cầu 15% - áp dụng năm 2023 sẽ đánh mất lợi thế dùng ưu đãi thuế thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Chính vì vậy, để Việt Nam giữ được lợi thế cạnh tranh của mình trong thu hút đầu tư nước ngoài, đồng thời không bị thất thu thuế, Chính phủ cần xem xét thay đổi các quy định về thuế trong nước và thiết kế các chính sách khuyến khích đầu tư mới, có cân nhắc đến mức thuế tối thiểu toàn cầu.

Thứ hai, đối với chính sách thuế xuất, nhập khẩu. Tháng 1-2007, Việt Nam trở thành thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và chính thức tham gia vào hệ thống thương mại toàn cầu. Việc thực hiện cắt giảm thuế quan hằng năm theo các cam kết trong WTO, ASEAN và các nước khác đối với các nguyên liệu, vật tư trong nước chưa sản xuất được đã tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp FDI nói riêng và doanh nghiệp nói chung giảm chi phí đầu vào trong sản xuất và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trong nước so với hàng nhập khẩu. Cũng từ lý do đó, Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu liên tục được cập nhật, sửa đổi trong các năm 2001, 2005, 2016 nhằm đáp ứng các yêu cầu cam kết hội nhập, đồng thời tiếp tục hoàn thiện các chính sách ưu đãi xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài. Điều 16 Luật Thuế xuất, thuế nhập khẩu 2016, trong đó có các hàng hóa là nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập khẩu để gia công hoặc sản xuất hàng hóa xuất khẩu; nguyên liệu, vật tư, linh kiện trong nước chưa sản xuất được để sản xuất cho các dự án đầu tư thuộc danh mục ngành, nghề đặc biệt ưu đãi đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư.

Năm 2020, Chính phủ ban hành Nghị định số 57/2020/NĐ-CP (sửa đổi Nghị định số 122/2016/NĐ-CP) đã bổ sung các quy định về việc áp dụng thuế xuất, thuế nhập khẩu ưu đãi 0% đối với nguyên liệu, vật tư, linh kiện trong nước chưa sản xuất được để sản xuất, gia công (lắp ráp) các sản phẩm hỗ trợ ưu tiên phát triển cho ngành sản xuất, lắp ráp ô-tô giai đoạn 2020 - 2024 (chương trình ưu đãi thuế công nghiệp hỗ trợ ô-tô). Tuy nhiên, hiện chưa có bằng chứng thực nghiệm nào cho thấy ưu đãi thuế làm tăng vốn FDI tại khu vực ASEAN và cụ thể là ở Việt Nam. Thậm chí, ưu đãi thuế còn tạo ra môi trường đầu tư không công bằng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Thứ ba, đối với ưu đãi liên quan đến đất đai. Trước ngày 30-6-2014, các ưu đãi về đất đai được chia theo hai hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất và thuê đất, áp dụng giảm số tiền phải nộp ở các mức 20%/30%/50% hoặc miễn giảm về thời hạn 7 năm/11 năm/15 năm. Từ tháng 7 năm 2014 đến nay, các ưu đãi về đất đai thực hiện theo Luật Đất đai 2013 và các nghị định quy định về thu tiền sử dụng đất, thu tiền thuê đất, thuê mặt nước. Năm 2017, nhằm thu hút đầu tư, tăng cường hiệu quả quản lý, sử dụng có hiệu quả nguồn lực tài chính đất đai tại các khu kinh tế, khu công nghệ cao, Chính phủ ban hành Nghị định số 35/2017/NĐ-CP, ngày 3-4-2017, quy định tiền sử dụng đất, thu tiền thuê đất, thuê mặt nước trong khu kinh tế, khu công nghệ cao với những ưu đãi cao hơn mức ưu đãi của các dự án đầu tư thường. Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành cùng thống nhất quan điểm xóa bỏ sự phân biệt giữa các loại hình doanh nghiệp trong cơ hội tiếp cận, sử dụng đất đai và thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với hoạt động sử dụng đất đai. Do đó, chính sách ưu đãi đất đai hiện hành về cơ bản là phù hợp, đồng bộ với các quy định của pháp luật về quản lý thuế, đất đai và đầu tư. Các quy định về ưu đãi đất đai góp phần thực hiện chính sách của Nhà nước đối với các đối tượng cần được ưu đãi, hỗ trợ và các lĩnh vực cần được khuyến khích thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đồng thời, chính sách ưu đãi đất đai đã và đang phát huy vai trò như một công cụ nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, các lĩnh vực ưu tiên đầu tư.

Thu hút đầu tư ở Hà Nội và một số vấn đề đặt ra

Về thu hút vốn FDI, giai đoạn 2018 - 2020, Hà Nội luôn trong nhóm dẫn đầu cả nước. Trong đó, năm 2018 và 2019 xếp thứ 1/63 tỉnh, thành phố với số vốn lần lượt đạt 7,5 tỷ USD và 8,67 tỷ USD; năm 2020, xếp thứ 3/63 tỉnh, thành phố đạt 3,83 tỷ USD.

Trong 2 năm 2021 và 2022, do bị ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 nên thu hút FDI vào thành phố Hà Nội có sự giảm sút. Tuy nhiên, Hà Nội vẫn là điểm đến hấp dẫn. Tính đến cuối năm 2022, thành phố đã thu hút mới trên 4.500 dự án FDI, với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 33 tỷ USD. Các doanh nghiệp FDI đã đóng góp trên 10% thu ngân sách, 11% số lao động trong các doanh nghiệp, 11% vốn đầu tư phát triển toàn xã hội,... Năm 2023, thành phố Hà Nội thu hút được 2,943 tỷ USD vốn FDI, tăng 70,5% so với năm trước, là một trong 5 địa phương dẫn đầu cả nước về thu hút vốn FDI. Năm 2024, Hà Nội phấn đấu thu hút FDI đạt khoảng 3,15 tỷ USD. Trong đó, các dự án có sử dụng đất khoảng hơn 2,15 tỷ USD, các dự án thương mại, dịch vụ khoảng 1 tỷ USD.

Qua thực trạng thu hút FDI tại Hà Nội, có thể thấy một số bất cập trong chính sách thu hút đầu tư của Việt Nam nói chung, thành phố Hà Nội nói riêng như sau:

Thứ nhất, chính sách ưu đãi đầu tư chưa đa dạng, chỉ tập trung vào các hình thức ưu đãi dựa trên thu nhập mà hầu như chưa có các hình thức ưu đãi dựa trên chi phí, theo đó chưa thực sự khuyến khích các hoạt động đầu tư thực chất, có lợi ích lâu dài. Việc phụ thuộc quá nhiều vào các ưu đãi thuế dựa trên thu nhập có thể phản tác dụng do công tác quản lý thuế còn nhiều hạn chế, điều này tạo ra các "kẽ hở" để các doanh nghiệp thực hiện các hành vi dịch chuyển lợi nhuận.

Thứ hai, chính sách ưu đãi đầu tư chưa bắt kịp với các chính sách tiên tiến, thông lệ quốc tế. Hiện nay trên thế giới, nhiều quốc gia đã và đang triển khai các hình thức ưu đãi dựa trên chi phí để khắc phục các nhược điểm của hình thức ưu đãi dựa trên thu nhập. Ưu đãi dựa trên chi phí đã rất phổ biến và là các thông lệ hàng đầu trên thế giới trong nhiều năm qua ở các quốc gia phát triển, như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc,... trở thành xu hướng trong phát triển chính sách ưu đãi tại các quốc gia đang phát triển, như Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan…

Thứ ba, chính sách ưu đãi chưa đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh chính sách thuế tối thiểu toàn cầu có hiệu lực vào năm 2024. Theo đó, các chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành sẽ không còn nhiều ý nghĩa, gián tiếp ảnh hưởng đến sức hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam, đặc biệt là trong thu hút các tập đoàn, nhà đầu tư chiến lược và các doanh nghiệp vệ tinh thuộc chuỗi cung ứng toàn cầu của các nhà đầu tư này.

Thứ tư, một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư đã được quy định trong luật nhưng không có hướng dẫn cụ thể để triển khai nên chưa có tác dụng trong thực tế.

Thứ năm, các ưu đãi thuế được quy định tại nhiều luật thuế khác nhau, gây ra vướng mắc, khó khăn trong quá trình thực thi, áp dụng ưu đãi và gia tăng chi phí tuân thủ của doanh nghiệp. Sự phức tạp này có nguy cơ khiến cho việc thực thi các chính sách ưu đãi kém hiệu quả hơn và cản trở các nỗ lực cải cách chính sách.

Để nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư vào thành phố Hà Nội, cần bám sát một số định hướng trong xây dựng và thực hiện các chính sách liên quan đến đầu tư, cụ thể:

- Sử dụng đúng mức và hợp lý các chính sách ưu đãi về thuế, tránh dư thừa, lãng phí bằng cách xác định rõ ràng, cụ thể đối tượng ưu đãi thuế. Xác định rõ ràng, cụ thể mục tiêu và các lĩnh vực/ngành cần ưu đãi thuế. Có chính sách ưu đãi đầu tư cụ thể đối với từng nhóm tỉnh, thành phố có đặc thù khác nhau.

- Không nên quá tập trung vào chính sách ưu đãi thuế mà cần hướng đến một hệ thống thuế tốt, minh bạch, công bằng, hiệu quả, phù hợp với các thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Ưu đãi thuế nên chuyển từ ưu đãi dựa trên lợi nhuận sang ưu đãi thông qua hiệu quả đầu tư và giá trị gia tăng.

- Chấm dứt cạnh tranh về ưu đãi đất đai, bởi việc cho thuê đất trong thời gian dài với giá rẻ có thể gây ra bất bình đẳng trong thu nhập và những tác động tiêu cực đối với người dân địa phương, tạo ra xung đột đất đai, gây nên sự bức xúc trong xã hội.

- Các chính sách ưu đãi cần được áp dụng ổn định trong trung và dài hạn, vì thế hạn chế việc thường xuyên thay đổi các chính sách ưu đãi đầu tư làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh cũng như chiến lược đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài.

- Xây dựng các quy tắc để quản trị tốt các ưu đãi đầu tư, bao gồm thời hạn và tiêu chí lựa chọn đối tượng rõ ràng cho từng ưu đãi, thay vì cung cấp ưu đãi cho các doanh nghiệp một cách tùy tiện. Cần thực hiện phân tích chi phí và lợi ích trước khi phê duyệt bất kỳ ưu đãi thuế hoặc phi thuế nào, đồng thời định kỳ thực hiện đánh giá hiệu quả của việc cấp ưu đãi đầu tư. Bên cạnh đó, có thể nghiên cứu xây dựng bộ các mức ưu đãi và tiêu chí cụ thể được ưu đãi nhằm hiện thực hóa chủ trương hậu ưu đãi một cách minh bạch, ổn định. Chính sách ưu đãi cần được đa dạng hóa và cụ thể hóa thành các tiêu chí theo quy mô, lĩnh vực, ngành, nghề, sản phẩm, phạm vi, trách nhiệm xã hội được ưu đãi; các minh chứng và quy trình báo cáo cơ quan quản lý để thực hiện ưu đãi./.

Các doanh nghiệp đầu tư vào Khu công nghiệp trong các lĩnh vực đầu tư xây dựng, kinh doanh cơ sở hạ tầng, đầu tư sản xuất, chế biến được hưởng những ưu đãi sau:

- Người sử dụng đất trong Khu công nghiệp, kể cả trường hợp thuê lại đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

- Các dự án đầu tư sản xuất tại Khu công nghiệp được miễn thuế nhập khẩu thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng (nằm trong dây chuyền công nghệ) để tạo tài sản cố định của doanh nghiệp, phương tiện vận tải chuyên dùng để đưa, đón công nhân mà trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất được nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu chất lượng (việc miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu như trên được áp dụng cho cả trường hợp mở rộng qui mô của dự án, thay thế đổi mới công nghệ).

- Miễn thuế nhập khẩu 5 năm từ ngày bắt đầu sản xuất đối với nguyên liệu, vật tư, linh kiện trong nước chưa sản xuất được nhập khẩu để sản xuất trừ các dự án và các mặt hàng được quy định tại Nghị định 87/2010/NĐ-CP.

- Miễn thuế hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố định của dự án đầu tư theo danh mục quy định tại Nghị định 87/2010/NĐ-CP

- Và các ưu đãi khác theo quy định của pháp luật.

- Đối với dự án mới trong Khu công nghiệp được áp dụng thuế suất thuế TNDN là 20% trong 10 năm kể từ khi dự án đầu tư bắt đầu hoạt động kinh doanh và được miễn thuế TNDN 02 năm kể từ khi có thu nhập chịu thuế và giảm 50% số thuế TNDN phải nộp cho 04 năm tiếp theo.

- Trong quá trình hoạt động, sau khi quyết toán với cơ quan thuế mà bị lỗ, doanh nghiệp được chuyển số lỗ sang năm sau; số lỗ này được trừ vào thu nhập tính thuế. Thời gian được chuyển lỗ không quá năm năm, kể từ năm tiếp theo năm phát sinh lỗ.