Theo dữ liệu từ Chính phủ Nhật Bản, số ca mới sinh đã giảm năm thứ tám liên tiếp vào năm 2023, đạt mức thấp kỷ lục và giảm 5,1% so với năm trước.

Dự báo dân số Nhật Bản 2025-2050

Dữ liệu mới nhất cho thấy tổng dân số Nhật Bản, bao gồm cả người nước ngoài, đã giảm năm thứ 13 liên tiếp vào năm 2023.

Bộ Nội vụ nước này ước tính tổng dân số năm 2023 giảm 0,48%, so với 1 năm trước đó.

Trong đó, số người mang quốc tịch Nhật Bản trong giai đoạn trên giảm 837.000 người xuống còn 121.193.000 người, tương đương 0,69% so với 1 năm trước đó. Đây là mức giảm lớn nhất kể từ khi Nhật Bản thống kê dữ liệu vào năm 1950.

Biểu hiện rõ ràng nhất cho thấy xã hội Nhật đang bị già hóa nhanh chóng là số người từ 65 tuổi trở lên là 36.227.000 người, chiếm mức kỷ lục 29,1% tổng dân số, tăng 0,1% so với năm trước. Số người từ 75 tuổi trở lên cũng tăng hơn 710.000 người và lần đầu tiên vượt qua 20 triệu người, chiếm kỷ lục 16,1% tổng dân số.

Mặt khác, số người dưới 15 tuổi là 14 triệu 173.000 người, chiếm 11,4% tổng dân số. Đó là mức thấp kỷ lục.

Dân số trong độ tuổi lao động, hay những người từ 15 đến 64 tuổi, là 73.952.000, giảm 256.000 so với 1 năm trước. Nhưng tỷ lệ ở nhóm tuổi này lại tăng lên 59,5% trên tổng số, tăng 0,1% so với năm trước.

Trong số 47 tỉnh của đất nước, Tokyo là nơi duy nhất chứng kiến sự gia tăng dân số. Con số này tăng 0,34%, trong 2 năm liên tiếp. Tỷ lệ giảm dân số cao nhất ở tỉnh Akita, tiếp theo là các tỉnh Aomori, Iwate và Yamagata. Tất cả đều thuộc vùng đông bắc Tohoku.

* Mời quý độc giả theo dõi các chương trình đã phát sóng của Đài Truyền hình Việt Nam trên TV Online và VTVGo!

Ảnh hưởng của già hóa dân số ở Nhật:

Hiện tượng già hóa dân số đang gây ra những vấn đề lớn về tăng trưởng kinh tế và chế độ phúc lợi xã hội.

Về tăng trưởng kinh tế, lực lượng lao động giảm do sự gia tăng của già hóa và giảm tỉ lệ sinh. Điều này dẫn tới sự trì trệ của tăng trưởng kinh tế.

Về chế độ phúc lợi xã hội, các chế độ như tiền lương hưu hay điều dưỡng chịu sự tác động của lực lượng lao động. Dân số lao động giảm, số lượng người già tăng, kết quả là tỉ lệ phần trăm số người lao động trong tổng dân số giảm. Số người chăm sóc cho một người cao tuổi cũng giảm, dẫn tới sự sụp đổ trong những phúc lợi xã hội liên quan tới y tế và điều dưỡng.

Các vấn đề này có thể được giải quyết bằng các giải pháp như mở cửa để các bạn đi du học và xuất khẩu lao động Nhật Bản với thị trường Việt Nam nhiều hơn.

Nguyên nhân chính và diễn biến tình trạng xã hội già ở Nhật Bản

Tình trạng già hóa dân số đã trở thành một trong những vấn đề lớn nhất mà Nhật Bản đang phải đối mặt. Từ 25 năm trước đến nay, Nhật Bản đã chứng kiến sự gia tăng đáng kể về tỷ lệ người cao tuổi, điều này đã dẫn đến tình trạng già hóa dân số gia tăng. Hiện nay, tỷ lệ người cao tuổi trong xã hội Nhật Bản đã vượt qua ngưỡng 14% vào năm 1995 và đạt mức 23% vào năm 2010, bước vào xã hội siêu già. Năm 2018, tỷ lệ này tiếp tục tăng lên 28.1%, gần 30% tổng dân số.

Có hai nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng này. Thứ nhất, do sự phát triển của y học và thay đổi của cuộc sống, tuổi thọ trung bình ngày càng tăng lên. Năm 2017, tuổi thọ trung bình của nam giới ở Nhật Bản là 81,09 và của nữ giới là 87,26. Cùng với sự gia tăng của lớp dân số trên 65 tuổi, số lượng người tử vong cũng có xu hướng tăng. Tuy nhiên, tỷ lệ tử vong điều chỉnh cơ cấu độ tuổi lại có xu hướng giảm, điều này cho thấy sự tiến bộ của y học và sức khỏe của người cao tuổi đang được cải thiện.

Ngoài ra, một trong những nguyên nhân khác là do sự giảm tỷ lệ sinh tại Nhật Bản. Số lượng trẻ em sinh ra đạt mức cao nhất trong cuộc bùng nổ sinh sản lần thứ hai vào những năm 1970, sau đó có xu hướng giảm. Năm 2019, con số này chỉ đạt 940 nghìn người, tỉ suất sinh thô (số lượng trẻ em sinh ra trong 1000 dân) là 7,6. Năm 2016 là năm đầu tiên số trẻ em sinh ra trong năm giảm xuống dưới 1 triệu trẻ, và tình trạng giảm thiểu dân số này vẫn đang tiếp tục diễn biến.

Ngoài việc giảm tỷ lệ sinh, Nhật Bản cũng đang phải đối mặt với vấn đề về giới tính và kết hôn. Tỷ lệ kết hôn ở Nhật Bản đang giảm, và các chính sách của chính phủ để khuyến khích người dân kết hôn và sinh con chưa đạt hiệu quả như mong đợi. Điều này cũng đóng góp vào tình trạng giảm dân số.

Tình trạng già hóa dân số đang gây ra tác động lớn đến kinh tế và xã hội Nhật Bản. Tuy nhiên, nó cũng đang tạo ra cơ hội cho các ngành kinh tế mới như chăm sóc sức khỏe, du lịch, và các sản phẩm dành cho người già. Để giải quyết vấn đề này, Nhật Bản đã triển khai nhiều chính sách khuyến khích người dân sinh con và tăng cường hỗ trợ cho người cao tuổi, bao gồm cả các chính sách nghỉ hưu và các chương trình hỗ trợ chăm sóc sức khỏe và đời sống.

Tuy nhiên, giải quyết vấn đề này vẫn còn đầy thách thức. Ví dụ, tình trạng già hóa dân số đang tạo ra áp lực lớn đến các hệ thống chăm sóc sức khỏe và hỗ trợ người già. Nhật Bản cũng đang phải đối mặt với những thách thức kinh tế do tình trạng này gây ra, bao gồm việc giảm sản lượng lao động và nhu cầu tài chính của người cao tuổi.

Khí hậu của Nhật Bản và ảnh hưởng đến đời sống và kinh tế:

Nhật Bản là một quốc gia có khí hậu đa dạng với nhiều quần đảo trải dài, từ vùng bắc đến vùng nam. Điều này dẫn đến sự phân hóa về khí hậu giữa các vùng miền trong đất nước này.

Ở phía bắc, khí hậu của Nhật Bản thuộc dạng ôn đới với mùa đông kéo dài và có tuyết rơi. Vì vậy, ở các vùng miền bắc Nhật Bản, người dân phải đối mặt với những khó khăn về đi lại, điều hòa không khí và cung cấp năng lượng trong mùa đông.

Trong khi đó, ở phía nam của Nhật Bản, khí hậu cận nhiệt và ẩm ướt hơn, thường có mưa to và bão. Điều này có ảnh hưởng đến việc sản xuất nông nghiệp và kinh tế của Nhật Bản. Ví dụ, cơn bão Jebi năm 2018 là một trong những cơn bão nhiệt đới mạnh nhất đã đổ bộ vào Nhật Bản, gây ra thiệt hại nặng nề ở vùng Kansai và gây khó khăn cho đời sống người dân.

Tuy nhiên, khí hậu phân hóa cũng đã tạo ra sự đa dạng trong cơ cấu cây trồng và vật nuôi, đóng góp cho việc phát triển ngành nông nghiệp tại Nhật Bản. Khí hậu của Nhật Bản cũng ảnh hưởng đến các hoạt động khác như du lịch và giao thông vận tải.

Việc ứng phó với khí hậu đang trở thành một trong những vấn đề cấp bách nhất trên thế giới. Khí hậu ảnh hưởng đến đời sống của con người, động thực vật, động vật và môi trường tự nhiên. Tại Nhật Bản, chính phủ đang dành sự quan tâm đặc biệt đến việc giảm thiểu tác động của khí hậu đến đời sống và kinh tế.

Nhật Bản đã đưa ra những biện pháp nhằm giảm thiểu tác động của khí hậu, bao gồm phát triển năng lượng tái tạo và giảm thiểu khí thải. Ngoài ra, Nhật Bản còn đầu tư vào các công nghệ tiên tiến để giảm thiểu tác động của khí hậu đến đời sống và kinh tế.

Tuy nhiên, để đạt được một kết quả tốt hơn, không chỉ chính phủ mà cả cộng đồng mỗi người dân Nhật Bản đều cần phải tham gia vào việc giảm thiểu tác động của khí hậu. Một số hành động như tiết kiệm năng lượng, sử dụng phương tiện giao thông công cộng hay các sản phẩm tái chế cũng sẽ giúp giảm thiểu tác động của khí hậu.

Việc nghiên cứu và quản lý khí hậu cũng là rất quan trọng để bảo vệ đời sống của người dân và phát triển kinh tế bền vững tại Nhật Bản. Chính phủ Nhật Bản đang đầu tư vào nghiên cứu về khí hậu và đưa ra các chính sách nhằm giảm thiểu tác động của khí hậu.

Với sự phát triển nhanh chóng của kinh tế và công nghệ, việc giảm thiểu tác động của khí hậu đến đời sống và kinh tế ngày càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Nhật Bản đang dẫn đầu trong việc ứng phó với khí hậu và sử dụng công nghệ tiên tiến để giảm thiểu tác động của khí hậu đến đời sống và kinh tế.

(Cập nhật lần cuối ngày: 10/09/2024)

Dân số Nhật Bản năm 2024, theo ước tính mới nhất của Liên hợp quốc, tính đến ngày 1/7/2024, là gần 124 triệu người, chiếm 1,52% dân số toàn cầu, đông dân thứ 12 thế giới. Dân số Nhật Bản năm qua giảm 0,51%, tương ứng hơn 636 nghìn người so với một năm trước.

Nhật Bản có mật độ dân số 328 người trên một km2. Người Nhật Bản có tuổi trung vị là 49,4 và tuổi thọ bình quân là 84,9. Tỷ lệ giới tính ở Nhật Bản là 93,5 Nam trên 100 Nữ. Năm qua, Nhật Bản có số người nhập cư ròng là hơn 153 nghìn người.

Liên hợp quốc dự báo, đến tháng 7/2025, dân số Nhật Bản dự kiến sẽ giảm tiếp 0,54%, tương ứng 662.848 người, xuống còn 123.103.479 người. Trong khi đó, tuổi trung vị và tuổi thọ bình quân đều tăng lên tương ứng là 49,8 và 85.